Vi Đà

Thứ Ba, 8 tháng 9, 2020

LUẬN VỀ Tăng-già-bà-thi-sa (Saṃghāvaśeṣa dharmā)

 Nhóm giới quan trọng thứ hai trong Giới Bổn là Tăng-già-bà-thi-sa (P. Saṅghadisesa). Nghĩa của thuật ngữ saṃghāvaśeṣa dharmā còn gây nhiều tranh luận trong giới học giả. Kabilsingh giải thích: “Trong một số tác phẩm Sanskrit, thuật ngữ này xuất hiện trong hình thức saṃghāvaśeṣa, vì vậy chữ saṅghadisesa có thể là một hình thức khác của ngôn ngữ Ma-kiệt-đà (Māghada) viết là saṅghavasesa - một biến thể Sanskrit sau này vốn có gốc là saṅghadisesa.”[1] 


Dâm  Tăng Thích Chúc Minh bị đuổi ra khỏi Tăng đoàn vì phạm Tăng Già bà Thi sa

Bà Horner nói: “Giống như thuật ngữ pārājika, thuật ngữ saṅghadisesa vẫn còn đang gây tranh luận. Lại nữa, B. C. Law và tôi đồng ý cách dịch như các tác phẩm Luật đã dịch thuật ngữ saṅghadisesa là các tội (các giới hay các vấn đề) cần phải có một cuộc họp chính thức của Tăng đoàn để giải quyết. [2]

Saṃghāvaśeṣa dharmā được dịch sang tiếng Hoa là “seng ts’an fa” (Tăng Tàn Pháp) nghĩa là “vẫn còn được tồn tại trong Tăng đoàn.” [3] Bản Thập Tụng Luật tiếng Hoa giải thích thuật ngữ saṅghadisesa như là các tội mà người phạm tội vẫn còn được ở trong Tăng đoàn. Khi một Tỳ-kheo [hay Tỳ-kheo-ni] sám-hối tội mình trước Tăng đoàn, vị ấy có thể chuộc lại những lỗi lầm sai trái. [4] Trong phần Tăng-già-bà-thi-sa, chúng ta thấy Tỳ-kheo-ni có hơn Tỳ-kheo 4 giới. Dù 4 giới này có thêm vào cho Tỳ-kheo-ni đi nữa nhưng cách phạt tội cũng đưa ra sự cảm thông cho Tỳ-kheo-ni là việc phạm tội chỉ xảy ra sau ba lần khuyên tấn. Như vậy 4 giới thêm vào của Tỳ-kheo-ni tạo cơ hội cho chư Ni tự tu sửa đời sống phạm hạnh của chính mình. Các giới trong tụ Tăng-già-bà-thi-sa được trình bày như dưới đây:


HT. Thích Đạt Niệm phạm Tăng Già Bà Thi Sa

Người dịch tạm mặc ước cho các giới sau: Thứ nhất là các số thứ tự; kế đến là nội dung của giới [5], thứ 3 là trật tự của giới Tỳ-kheo tương đương được để trong ngoặc vuông nếu có. [6]


1. Cấm làm mai mối cho nam nữ [5].

2. Cấm cáo gian một vị Tỳ-kheo-ni phạm tội Ba-la-di [8].

3. Cấm vì giận hay thù địch vô cớ mà bắt tội một vị Tỳ-kheo-ni khác phạm Ba-la-di [9].

4. Cấm kiện thưa, buộc tội bồi thường.

5. Cấm cho kẻ trộm xuất gia. 

6. Cấm tự ý giải tội cho một Tỳ-kheo-ni đang bị cử tội.

 7. Cấm vào làng, qua sông, ở đêm một mình xa hội chúng Tỳ- kheo-ni. 

8. Cấm nhận thức ăn hoặc y phục của một người nam có tâm nhiễm ô.

9. Cấm xúi dục Tỳ-kheo-ni khác nhận thức ăn của một người nam có tâm nhiễm ô.

10. Cấm tạo sự chia rẽ trong Tăng đoàn, bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba. [10]

11. Cấm ủng hộ một vị Tỷ-kheo-ni khác chia rẽ Tăng đoàn, bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba. [11]

12. Cấm một Tỳ-kheo-ni đã được ba lần khuyên bảo mà không chịu đi khỏi làng sau khi làm những chuyện xấu ác đối với một gia đình hoặc một ngôi làng [12]. 

13. Cấm vì tâm xấu ác vi phạm luật của Tăng đoàn, hoặc không nghe lời khuyên bảo [13]. 

14. Cấm thân cận với Tỳ-kheo-ni phạm tội hoặc che dấu tội cho nhau, bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba.

15. Cấm khuyến khích một Tỳ-kheo-ni khác thân cận với Tỳ-kheo ni phạm tội hoặc che dấu tội cho nhau, bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba.

16. Cấm vì giận hoặc không vui đòi từ bỏ Phật, Pháp, Tăng bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba.

17. Cấm tranh cãi với Tỳ-kheo-ni rồi đến Tỳ-kheo-ni khác nói xấu, bất chấp lời khuyên răn lần thứ ba. 

Các giới trong tụ Tăng-già-bà-thi-sa của Tỳ-kheo [7]

Người dịch tạm mặc ước thứ nhất thứ tự giới, thứ hai là nội dung giới 

1. Cấm cố ý làm xuất tinh. [8] 

2. Cấm hẹn hò với người nữ để xúc chạm thân thể, cầm tay, cầm cánh tay, đụng tóc, hoặc đụng chạm các phần khác của thân thể của phụ nữ.

3. Cấm nói lời trêu ghẹo với phụ nữ có liên hệ đến sự giao hợp phi pháp. 

4. Cấm trước mặt phụ nữ nói lời tán thán phục vụ tình dục.

6. Cấm cất chỗ ở rộng quá thước tấc [9] mà không có thí chủ cúng dường. 

7. Cấm cất chỗ ở rộng rãi làm tổn hại động vật hoặc xây cất các cơ sở không có lợi ích, mà chỉ để vui chơi giải trí (nếu có thí chủ cúng dường đất). 


Mười bảy giới cho Tỳ-kheo-ni và mười ba giới cho Tỳ-kheo trong tụ Tăng-già-bà-thi-sa trình bày các giới khoản nghiêm trọng thứ hai của luật xuất gia. Bảy giới sau đây được áp dụng cho cả Tỳ-kheo-ni và Tỳ-kheo (1, 2, 3, 10, 11, 12 và 13 của Tỳ-kheo-ni và 5, 8, 9, 10, 12 và 13 của Tỳ-kheo). Trong mười giới khác nhau giữa Tỳ-kheo-ni và Tỳ-kheo còn lại, giới thứ 4 của Tỳ-kheo-ni đề cập cách ứng xử với cư sĩ; giới thứ 5 đề cập việc truyền giới sai; giới thứ 6 không được giải tội cho một Tỳ-kheo-ni đang bị cử tội mà không được phép của Tăng đoàn; giới thứ 7 đề cập việc không được phép vào làng, qua sông hoặc ở đêm một mình; giới thứ 8 và 9 liên quan đến việc phòng hộ cho chư Tỳ-kheo-ni tránh xa những người nam có tâm nhiễm ô nguy hiểm; giới thứ 14 và 15 cấm Tỳ-kheo-ni che dấu tội của những người khác; giới thứ 16 nói về Tỳ-kheo-ni không tôn kính Phật Pháp Tăng và giới thứ 17 đề cập một Tỳ-kheo-ni thường gây gổ.

Giống như các giới trong tụ Tăng-già-bà-thi-sa, có giới chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo-ni, cũng như cũng có những giới chỉ áp dụng riêng cho các Tỳ-kheo. Sáu giới riêng biệt cho Tỳ-kheo trong tụ này nói về các vấn đề như: bốn giới (1, 2, 3 và 4) liên hệ đến tình dục; và hai giới (6 và 7) đề cập đến vấn đề xây cất am thất hoặc chỗ ở rộng lớn. Các giới chỉ áp dụng cho Tỳ-kheo này cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về đời sống của Tỳ-kheo-ni. Ví dụ như nói về hai giới liên hệ đến vấn đề xây cất chỗ ở, Kabilsingh nói vì hai giới này “không có trong Giới Bổn Ni, chúng ta có thể hiểu tự thân chư Ni thường không thể đảm nhiệm công việc xây cất.” [10] 

Khi một Tỳ-kheo-ni hay Tỳ-kheo vi phạm một trong chín giới đầu thuộc tụ Tăng-già-bà-thi-sa thì lập tức phạm tội ngay, trong khi đó tám giới sau (10 - 17) của Tỳ-kheo-ni và bốn giới sau (10 - 13) của Tỳ-kheo, nếu vị Tỳ-kheo-ni hoặc Tỳ-kheo nào phạm một trong các giới này thì chưa tạo thành tội, nếu như chưa được khuyên răn 3 lần, đây là vấn đề cần thiết. Các tội của bốn giới thêm vào (14, 15, 16 và 17) cho Tỳ-kheo-ni cũng chưa thành tội nếu vị Tỳ-kheo-ni phạm tội chưa được khuyên răn 3 lần.[11] 

Khi một Tỳ-kheo phạm bất cứ một tội nào trong các tội thuộc tụ Tăng-già-bà-thi-sa, vị ấy buộc phải bị biệt trú (parivāsa) [12] một khoảng thời gian tương xứng với thời gian che dấu tội. Nếu vị Tỳ-kheo trình bày tội của mình ngay sau khi phạm với một vị Tỳ-kheo khác thì vị Tỳ-kheo phạm tội chỉ hành pháp Ma-na-đoả [13] (S. mānatva; P. mānatta) trong 6 ngày trước Tăng đoàn. Tuy nhiên, nếu một vị Tỳ-kheo che dấu tội của mình, trước hết vị ấy phải hành pháp biệt trú một thời gian tương xứng với thời gian che giấu tội, tiếp theo, vị ấy phải hành pháp Ma-na-đoả trước Tăng đoàn. [14]

Ngược lại, khi một Tỳ-kheo-ni vi phạm một trong các giới trọng tụ Tăng-già-bà-thi-sa, vị ấy phải chịu tội trước nhị bộ Tăng rồi hành pháp Ma-na-đoả trong thời gian nửa tháng, cho dù vị Tỳ-kheo-ni ấy có che dấu tội của mình trong thời gian nào đó hay không [15] cũng không yêu cầu hành pháp Biệt trú. Tuy nhiên, vị ấy phải hành pháp Ma-na-đoả trong thời gian nửa tháng trước nhị bộ Tăng. Vị ấy phải đi đến nhị bộ Tăng xin được hành pháp Ma-na-đoả. [16] 


Luật Pāli ghi: “Một vị Tỳ-kheo-ni phạm một trong các tội Tăng-già-bà-thi-sa phải trải qua thời gian nửa tháng hành pháp Ma-na-đoả trước nhị bộ Tăng. Khi vị ấy hành pháp Ma-na-đoả xong, Ni đoàn phải đủ 20 vị chứng minh thì vị ấy có thể được phục hồi lại. Nếu Ni đoàn không đủ 20 vị, dù thiếu một vị đi nữa, vị phạm tội cũng không được phục hồi và chư Tỳ-kheo-ni chứng minh cho vị ni phục hồi ấy cũng có lỗi. Đây là tiến trình thi hành luật đúng pháp.[17]


Tuy nhiên, Tứ Phần Luật Tỳ-kheo-ni lại yêu cầu con số các thành viên Tăng đoàn nhiều hơn: “Nếu một Tỳ-kheo-ni nào phạm một trong các điều luật Tăng-già-bà-thi-sa thì vị ấy phải hành pháp Ma-na-đoả trong một tháng rưỡi trước nhị bộ Tăng. Khi vị ấy hành pháp Ma-na-đoả xong, vị ấy phải cầu xin chuộc tội trước sự hiện diện của nhị bộ Tăng gồm 20 vị Tỳ-kheo và 20 vị Tỳ-kheo-ni. Nếu con số không đủ 40 vị dù thiếu chỉ 1 vị, thì vị Tỳ-kheo-ni phạm tội ấy không được phục hồi, và chư Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni (của nhị bộ Tăng) sẽ có lỗi (vì không đủ số Tăng để phục hồi cho cô). [18]

So sánh hai bộ luật trên, chúng ta thấy túc số Tăng của nhị bộ Tăng không đồng nhất. Luật Pāli qui định 20 vị Ni là túc số để phục hồi cho một vị Ni phạm tội, nhưng không quy định túc số Tăng cụ thể cho chư Tỳ-kheo. Tuy nhiên, Tứ Phần Luật chữ Hán quy định phải đủ 20 vị Tỳ-kheo và 20 vị Tỳ-kheo-ni thì mới được xem là túc số Tăng để phục hồi cho vị Ni phạm tội.[19] Có lẽ quá trình lịch sử phiên dịch Luật Tạng, túc số Tăng được thêm vào trong Tứ Phần Luật Ni tiếng Hoa.

Nhìn qua “việc Tỳ-kheo-ni thi hành pháp Ma-na-đoả trước nhị bộ Tăng” người ta có thể nghĩ rằng vị trí Ni bộ lệ thuộc vào Tăng bộ và Tỳ-kheo-ni chịu hành phạt nặng hơn Tỳ-kheo khi phạm tội Tăng-già-bà-thi-sa. 

Tuy nhiên, Lan Astley phát biểu rằng: “Thật ra, nhiều phần của Luật Tạng phản ảnh lối suy nghĩ quá vụn vặt, có thể được xem như là thâu tóm hầu hết mọi thứ, từ những vấn đề linh tinh đến vấn đề của phụ nữ với quan kiến không tốt lắm, tuy nhiên điểm lưu tâm căn bản mà chúng ta không nên hiểu sai, đó là vấn đề còn nằm phía sau: mối quan hệ giữa hai bộ Tăng Ni. Vào thời đó (và vẫn còn tồn tại trong xã hội Ấn ngày nay) một người nữ tách rời cuộc sống gia đình ít nhiều có thể bị xem như là gái điếm và tất nhiên phải chịu sự quấy nhiễu. Khi gia nhập Tăng đoàn, chư Ni được hưởng những lợi ích của đời sống không gia đình mà không bị một điều tổn hại nào. Tuy nhiên, một điều không được thoải mái lắm, nhưng mà bất cứ một người có văn hóa nào cũng phải làm như vậy, đó là nhấn mạnh đến sự cần thiết bảo vệ nữ giới qua cách thể hiện thái độ và ứng xử. Do đó, thật là sai lầm khi phê bình đức Phật và chúng Tăng chấp nhận cách bảo vệ nữ giới như vậy. [20]

Tôi hoàn toàn nhất trí với Astley rằng các pháp yết-ma của Tỳ-kheo-ni trước nhị bộ Tăng Ni và một số giới thêm vào cho Tỳ-kheo-ni được quy định là vì bối cảnh xã hội và văn hoá đặc biệt trong thời đức Phật. Có một vài trường hợp như Luật Tạng ghi lại, các Bà-la-môn nói chư Tỳ-kheo-ni như là “các con điếm” hay là “gái mại dâm.” Những câu chuyện này cho chúng ta một cái nhìn sơ bộ về chư Ni trong xã hội Bà-la-môn vào thời đức Phật. 

Ví dụ có một đoạn trong Luật ghi: “Lúc bấy giờ một số vị Ni đi đến Sāvatthī (Xá-vệ) ngang qua các đô thị của Kośalā (Kiều-tát-la), khi đến làng vào lúc trời tối, những vị Ni này đến một gia đình Bà-la-môn và xin nghỉ trọ qua đêm. Một phụ nữ Bà-la-môn trong nhà nói với chư Ni: “Các cô hãy đợi khi gia chủ về…trong đêm đó gia chủ trở về và ông hỏi nữ Bà-la-môn: “Những người này là ai?” “Thưa ông, họ là chư Ni”. Ông liền nói: “Hãy tống khứ những con gái điếm trọc đầu này đi” rồi ông đuổi họ ra khỏi nhà. [21]

“…Rồi người đàn ông ấy, xua đuổi, khinh bỉ, chỉ trích, la lên: “Các con trọc đầu này không phải là những sa-môn chân chánh, chúng nó là gái điếm. Làm sao chúng nó có thể ở trong nhà kho của chúng ta ?” [22]

“…Rồi Bà-la-môn ấy…la lớn lên: “Các con điếm trọc đầu này không phải là những người tu hành chân thật. Làm thế nào họ để rớt bát của họ trên đầu của ta? Ta sẽ đốt cháy chỗ ở của chúng,” và ông cầm khúc củi cháy đi vào chỗ ở của chư Ni. [23]

Trong điều kiện xã hội như vậy mà đức Phật đã thành lập Ni đoàn, thì quả là đã mở ra một chân trời mới cho phụ nữ. Sự tiến bộ của nữ giới về phương diện tâm linh và xã hội này vượt thời gian, và do đó đã gây ra nhiều phản đối từ phía nam giới, kể cả các Tỳ-kheo [24]. Chắc chắn Ngài hiểu thấu các cuộc tranh luận này là do sự phiền nhiễu các đệ tử nữ gây nên. Trong lịch sử Phật giáo, Ni đoàn được thành lập sau Tăng đoàn 5 năm. [25] Trong giai đoạn đầu của Ni đoàn, các Tỳ-kheo-ni học tất cả các pháp yết-ma và nhiều phương diện tri thức khác từ các Tỳ-kheo. Cullavagga Pāli (Tiểu Phẩm) [26] đã chỉ ra Ni đoàn học theo Tăng đoàn như thế nào.

“Lúc đó chư Ni không tự đọc Giới Bổn được. Họ bạch vấn đề này lên đức Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép các ông đọc Giới Bổn cho chư Ni”…[27]

“Chư Ni không biết cách tụng đọc giới bổn. Họ trình vấn đề này lên đức Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép các ông dạy cho chư Ni. Hãy nói như thế này: “Giới Bổn nên đọc như thế này.” [28]

“Chư Ni không biết cách sám-hối. Họ trình bạch vấn đề này lên Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ-kheo ta cho phép các ông dạy cho chư Ni cách sám-hối. Hãy nói như thế này: “Khi có tội phải sám-hối như thế này.” [29] 

“Chư Ni không biết cách để nhận các tội. Họ trình vấn đề này lên Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép các ông giải thích cho chư Ni. Hãy nói như thế này: “Khi có tội phải thừa nhận như thế này.” [30]

“Chư Ni không biết cách hành pháp yết-ma. Họ trình bạch lên Thế Tôn. Ngài dạy: “Này các Tỳ-kheo, ta cho phép các ông dạy cho chư Ni. Hãy nói như thế này: “Pháp yết-ma nên thi hành như thế này.” [31]

Như tôi đã trình bày ở trên, cách thực hiện các pháp yết-ma cho Tỳ-kheo-ni đòi hỏi phải trước nhị bộ Tăng, điều này cho thấy mối quan hệ gắn bó giữa hai bộ Tăng. Nhờ sự giao tiếp đúng pháp với Tăng bộ, Ni bộ có nhiều lợi ích và tránh được các mối đe doạ trong xã hội thời Ấn Độ cổ đại. Đặc biệt, khi chúng ta xét đến hoàn cảnh văn hoá Ấn Độ cổ đại, việc tác pháp yết-ma trước nhị bộ Tăng rất cần thiết cho Ni đoàn. Như tôi đã đề cập, 4 giới được thêm vào cho Tỳ-kheo-ni (14, 15, 16 và 17) trong tụ Tăng-già-bà-thi-sa thuộc vào 8 giới cuối (10 - 17) được quy định là phải sau 3 lần khuyên răn thì mới bị kết tội. Tôi cho rằng việc quy định buộc tội sau 3 lần khuyên răn về 4 giới thêm vào này cho Tỳ-kheo-ni có nhiều cơ hội để thăng tiến trong đời sống tâm linh hơn, điều đó không phải là một hành phạt quá khắc khe. Những giới này nhằm khuyến khích chư Tỳ-kheo-ni tiến xa hơn trong việc tu sửa chính mình qua 3 lần khuyên răn, nhờ đó mà người phạm tội có thời gian để tu sửa thân tâm. 

--------------------------------------------------------------------------------

[1] Kabilsingh, pp. 57-58. 


[2] Sacred Buddhist Books. Tập X, pp. xxix-xxx.


[3] Đại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 579, 718.


[4] Sách đã dẫn, p. 14.

[5] Sách đã dẫn, Tập XXII, pp.716-727, 1032-1033. 

[6] Sách đã dẫn, pp. 579. 718.

[7] Sách đã dẫn, pp. 579-587, 1032-1033.

[8] Sách đã dẫn, pp. 579-587. 1026-1017.

[9] Chiều dài bằng 12 gang tay, rộng bằng 7 gang tay của đức Phật (Đại Chánh Tạng, Tập XXII, p. 585).

[10] Kabilsingh, p. 69.

[11] Đại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 722-727, 1033.

[12] Giai đoạn hình phạt, xem thêm chi tiết trong C. S. Upasak, Dictionary of Early Buddhist Monastic Terms (Varanasi: Bharati Prakashan, 1975), pp. 158-160.

[13] Hình phạt tạm thời, xem thêm chi tiết trong tác phẩm trên, pp. 183-184.

[14] Đại Chánh Tạng, Tập XXII, pp. 1033, 1062-1062, 1068-1069.

[15] Sách đã dẫn, pp. 1033, 1062-1063, 1068-1069.

[16] Cùng trang, Sách đã dẫn.

[17] Sacred Buddhist Books. Tập XIII, p. 212.

[18] Đại Chánh Tạng, Tập XII, p. 1033.

[19] Cho đến bây giờ, tôi chưa có thể tìm ra trong Luật Tạng Pāli giới mà cho rằng khi một Tỳ-kheo-ni phạm một trong các tội Tăng-già-bà-thi-sa là vị ấy phải đi đến nhị bộ Tăng và cầu xin hành pháp Ma-na-đoả. Luật Pāli không đề cập rõ ràng túc số Tăng quy định để phục hồi cho vị Tỳ-kheo-ni phạm tội.

[20] Lan Astley,(A book review of) Buddhism After Patriarchy: A Feminist History, Analysis, and Reconstruction of Buddhism, in Studies in Central & East Asian Religions , Vol. 5/6 (Copenhagen: Journal of the Seminar for Buddhist Studies, 1992-3), p. 208.

[21] Sacred Buddhist Books. Tập XIII, p. 275.

[22] Sách đã dẫn, p. 178.

[23] Sách đã dẫn, p.257.

[24] Theo quan điểm của người dịch thì trong Luật Tạng cũng như trong Kinh Tạng chưa có chỗ nào đề cập đến thái độ của Tỳ-kheo kỳ thị về nữ giới hoặc cấm cản chuyện tu hành của chư Ni (chú thích của người dịch).

[25] Kajiyama Yuichi, "Women in Buddhism," in The Eastern Buddhist Vol. XV No. 2 Autumn 1982 (Tokyo: Komiyama Printing Co., 1982), pp. 159-160. 

[26] Xem Russell Webb, ed. An Analysis of the Pāli Canon (Kandy, Sri Lanka: Buddhist Publication Society, 1991) , p. 3. 

[27] Sacred Buddhist Books. Tập XX, p. 359.

[28] Sách đã dẫn, p. 360.

[29] Cùng trang, Sách đã dẫn. 

[30] Sách đã dẫn, p. 361.

[31] Cùng trang, Sách đã dẫn.

 Đọc Thêm: Tứ Phần Luật, Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét